Từ các nghiên cứu cho thấy, có một số các bệnh lý có thể phòng ngừa trong giai đoạn trước khi mang thai.
Có một số dị tật, bệnh lý có thể ngăn ngừa được nếu can thiệp sớm ở giai đoạn trước khi mang thai như: dị tật ống thần kinh, ảnh hưởng của nhiễm Rubella, viêm gan siêu vi B… từ mẹ lên thai nhi.
Kiểm tra sức khỏe trước khi mang thai
Những phụ nữ có các bệnh nền mạn tính như: đái tháo đường, cường giáp, tăng huyết áp, bệnh lý tim mạch… cần thiết điều trị bình ổn và có sự kiểm soát của bác sĩ chuyên khoa về cách điều trị trước và trong khi mang thai.
Khi phát hiện các bệnh lý có thể ảnh hưởng đến thai kỳ: viêm nhiễm âm đạo, cổ tử cung, cần điều trị khỏi hẳn hoàn toàn, sau 3 chu kỳ kinh mới nên thụ thai. Các bệnh lý có thể diễn tiến nặng hơn nếu mang thai: suy tim độ 3 – 4 trở nên, bệnh ung thư giai đoạn I trở đi: phải điều trị tốt, đồng thời cân nhắc khả năng ảnh hưởng của thai nhi lên bệnh của mẹ, và mức độ nặng hơn của mẹ khi mang thai. Ngưng các thuốc có thể là yếu tố nguy cơ cho thai như: thuốc ngừa thai, thuốc điều trị hạ huyết áp…
Tầm soát các bệnh di truyền ở các cặp vợ chồng có nguy cơ, như: hội chứng Down, dị tật ở tim, sứt môi, chẻ vòm hầu, bệnh lý máu như thalasemie, chậm phát triển tâm thần vô căn; bằng cách khuyên các cặp vợ chồng khám tổng quát, xét nghiệm liên quan đến bệnh tật bẩm sinh, bệnh lý nhiễm trùng, nhiễm siêu vi. Một khi có liên quan, cần thiết điều trị chuyên khoa và nhận những lời khuyên từ bác sĩ chuyên khoa, nên có thai hay cần sự hỗ trợ sinh sản.
Các việc cần làm để chăm sóc trước khi thụ thai
Khám tổng quát cả hai vợ chồng, chú ý đạt cân nặng cần thiết để có BMI (chỉ số khối cân nặng của cơ thể) bình thường trước khi người vợ mang thai. Giảm cân ở người béo phì. Càng ngày càng cho thấy bằng chứng cân nặng trước khi mang thai quan trọng hơn việc tăng cân trong thai kỳ. Ở người béo phì khi mang thai, tăng nguy cơ sảy thai, dị tật bẩm sinh, tăng huyết áp, đái tháo đường, con to dẫn đến tăng tỉ lệ mổ lấy thai. Ở người nhẹ cân, cần thiết có chế độ bồi dưỡng ăn uống hàng ngày làm sao đạt mức trung bình về cân nặng. Ở người nhẹ cân khi mang thai, tăng nguy cơ sinh non, con nhẹ cân.
Làm các xét nghiệm cơ bản trước khi thụ thai: huyết đồ, định nhóm máu ABO – Rh, kháng thể kháng Rubella, HBsAg, giang mai, HIV, xét nghiệm tế bào cổ tử cung PAPS, siêu âm tử cung và 2 phần phụ, siêu âm vú. Điều trị ngay các bệnh đang có. Tiêm ngừa viêm gan siêu vi B, tiêm ngừa Rubella. Sau 3 tháng mới thụ thai.
Bổ sung acid folic 0,4 mg/ngày, cho người thiếu chất này và bổ sung thường quy cho tất cả phụ nữ chuẩn bị mang thai, thời gian dùng trước 3 tháng uống liên tục mỗi ngày.
Ở những cặp vợ chồng trước đây đã có sinh một bé, sau 5 năm trở đi, muốn sinh thêm bé thứ 2, nhưng sau 3 – 5 chu kỳ kinh liên tiếp giao hợp vẫn không có khả năng mang thai. Nguyên nhân thường gặp về phía vợ do tắc ống dẫn trứng gây ra bởi trước đó có tiền căn bệnh phụ khoa, thường do Chlamydia Trachomatic và Neisseria gonorrheae gây ra làm tắc dính ống dẫn trứng. Ở người chồng, do thiểu năng tinh trùng. Đây là điều nhất thiết phải đi khám chuyên khoa để tìm ra nguyên nhân và điều trị hiệu quả.
Các bệnh lý có nguy cơ tử vong cao > 50% khi mang thai: hội chứng Eisenmenger (tăng sức cản mạch phổi cố định) tăng áp phổi nguyên phát, hội chứng Marfan (rối loạn di truyền ảnh hưởng mô liên kết) kèm giãn rộng gốc động mạch chủ, tứ chứng Fallot (dị tật tim bẩm sinh mức độ nặng) chưa điều trị, cần được xác định để tư vấn, tránh việc mang thai.
Theo Suckhoedoisong